Feeds:
Bài viết
Bình luận

Lời tự thuật của Hữu Loan, tác giả bài thơ “Màu tím hoa sim”

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Hữu Loan viết không nhiều khoảng trăm bài thơ. Tuy nhiên, bài thơ mà nhiều người biết đến nhất và ông nổi tiếng vì nó lại là bài “Màu tím hoa sim”. Và gần như cuộc đời thăng trầm của ông cũng gắn với bài thơ này.

Thi sĩ Hữu Loan và mối tình bất hủ

Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Xung quanh câu chuyện này đã được kể và viết rất nhiều và không ít người đã thêu dệt cho nó ly kỳ.

Nhà thơ Hữu Loan kể:

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo,hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. lên trung học,theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy,tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành…. Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…. Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồn. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ”mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi

                                    Hoa sim

…..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…. Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
-Ngọt qúa.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì…. tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

alt

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi …. lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại…. em vẫn đứng yên đó …. Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa…..

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ

…..

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…. Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ”yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay… lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường. Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại….. Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi.

Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…. Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ….
…Tôi về không gặp nàng….

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chổ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh. huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :

Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.

Màu tím hoa sim
Tác giả: Hữu Loan
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê …
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh …
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim …,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)


Những cuộc tình trong đời nhạc sĩ Phạm Duy

Vốn là một con người hào hoa và đa tình nên kể cả khi ở vào ngưỡng tuổi… “U 100”, nhạc sĩ Phạm Duy vẫn thừa nhận rằng mình là người “nghiện yêu”, mỗi tình khúc đều liên quan đến một cuộc tình.

Bố mất khi mới 2 tuổi (nhà văn – nhà báo quốc ngữ tiên phong Phạm Duy Tốn, mất năm 1923), 17 tuổi bỏ nhà đi “bụi” cũng là lúc Phạm Duy bước chân vào lĩnh vực ca nhạc, ông là ca sĩ chuyên hát nhạc của Văn Cao trong gánh cải lương Đức Huy – Charlot Miều đi lưu diễn từ Bắc chí Nam.

                         Nhạc sĩ Phạm Duy

Trên bước đường rong ruổi, nhiều lần đi xuyên Việt, từ biên giới Việt – Hoa cho đến tận Cà Mau, và sau này qua Mỹ, rồi lại trở về Việt Nam, người nhạc sĩ tài hoa này đã để lại đằng sau mình rất nhiều mối tình. Trong đó có 2 dấu ấn: lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng và và yêu một “người tình nhỏ”, người làm tặng ông đến 300 bài thơ và là niềm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật dồi dào của ông. Tuy nhiên, trước khi chạm tới những “mối tình lớn” đó, chúng ta hãy “làm quen” với những “mảnh tình vắt vai” của ông…

Những cuộc yêu không hẹn ước …

Ngay từ thời mới “bể tiếng”, Phạm Duy đã yêu thầm một người con gái rất đẹp và nết na tên Sâm, người tỉnh Hưng Yên. Phạm Duy đã từng viết dăm ba bức thư tình hết sức lâm li bi đát để gửi cho người ấy. Nhưng rồi định mệnh đưa đẩy, cô Sâm nhận lời về làm vợ ông giáo Phạm Duy Nhượng (anh ruột của Phạm Duy, tác giả Tà áo Văn Quân).

Có lẽ vì “quê độ” với bà chị dâu trong hoàn cảnh thật là trớ trêu này nên Phạm Duy bỏ nhà đi “bụi”. Nhưng chỉ một thời gian sau, khi Phạm Duy còn “hát rong” ở tận miền Nam thì ở quê nhà cô Sâm đột ngột vắn số lìa đời vì bệnh thương hàn khi tuổi đời còn rất trẻ. Có lẽ đây là mối tình “lành mạnh” nhất của ông (bởi lúc đó ông còn nhỏ), nhưng những mối tình khác thì…

Trong hồi ký, ông kể: “Trong khi tôi còn vác bài Buồn tàn thu (của Văn Cao), đi lưu diễn ở trong Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ ở giọng hát của Kim Tiêu mà những bài Thiên thai, Trương Chi của Văn Cao được nổi tiếng. Năm 1945 từ trong Nam, tôi trở ra Hà Nội.

Ở phố Hàng Gai có một phòng trà lấy tên là “Thiên Thai”, cái tên được đặt ra như vậy là vì tất cả dân chúng lúc đó đang ở trong tầm ảnh hưởng của bài hát rất trữ tình của Văn Cao.

                         Ban hợp ca Thăng Long

Đây là nơi tôi được các nhạc sĩ Trần Quang Trường, Đỗ Lệnh Tâm và em là Đỗ Lệnh Kiên… đệm đàn cho tôi hát. Cũng tại phòng trà này, tôi lăng xê giọng hát của phái nữ hay nhất lúc đó là Thương Huyền. Nàng là người tình chớp nhoáng của tôi. Tên thật của Nàng là Thường. Tôi đặt tên cho Nàng một cách rất giản dị, theo lối đánh vần “thương huyền thường”.

Tôi dạy cho Thương Huyền hát bài Trao lòng, một bài ca nhờ ở giọng hát trong trẻo của cô ca sĩ rất đa tình này mà trở thành nổi tiếng. Thương Huyền có nụ cười và hàm răng như hoa nở. Tính tình thuộc loại bạt mạng, bất cần đời.

Trong buổi họp mặt các văn nghệ sĩ tại nhà của họa sĩ Phạm Văn Đôn trên đường Halais, ở dưới nhà, người ta ngâm thơ và ca hát, ở trên lầu, bất cần mọi người, tôi và Thương Huyền yêu nhau thắm thiết. Về sau chúng tôi còn gặp lại nhau nhiều lần trong kháng chiến…

Đồng thời, tôi cũng có một cuộc sống tạm bợ với một người tình khác đang làm nghề vũ nữ ở nhà hàng khiêu vũ Tabarin tên là Định. Hà Nội lúc đó có hai vũ nữ đẹp là Định và Thơm. Cả hai đều mê nhạc sĩ. Nàng Định ở với tôi còn nàng Thơm, lai Pháp thì lấy Đỗ Thiều, nhạc sĩ chuyên về clarinette. Vũ nữ Định đẹp một cách lộng lẫy, trông như con gái nhà lành.

Hơn thế nữa, trông như con nhà quyền quý. Cô vũ nữ có đôi bàn tay rất mọng này lại là con người có tính đồng bóng. Vừa mới ngủ với người tình trong đêm, sáng ra lại trợn mắt hỏi: “Anh là ai?”. Tôi soạn cho cô vũ nữ tàng tàng này một bài hát lấy tên là Tình kỹ nữ: “Đêm nay đôi người khách giang hồ. Gặp nhau tình trăng nước…”. Nàng vũ nữ Định sau này chết vì bệnh ho lao trong cảnh nghèo nàn tại Sài Gòn vào năm 1960″.

Trong hồi ký, Phạm Duy còn nói đến chi tiết ông được ông bà quan tri huyện nhận làm con nuôi, rồi họ nhờ ông lên vùng Nhã Nam (Yên Thế) coi sóc đồn điền. Ở đây chàng nhạc sĩ họ Phạm đã từng “dính líu” đến ít nhất là hai nàng thôn nữ: “Xin nhắc lại là khi đó tôi có hai người tình là gái quê một trăm phần trăm, mà lại là gái quê vùng Yên Thế. Trong lần trở về vùng quê cũ này, tôi chỉ gặp lại một người mà xưa kia tôi có ý định lấy làm vợ. Nàng tên là Hạ và là con gái lớn của một ông Chánh Tổng.

Cảnh làng mạc có đôi phần đổi thay, tôi hỏi thăm đường về nhà ông bố vợ hụt… Gặp lại cô gái quê, thấy nàng vẫn chưa lấy chồng, vẫn còn đẹp, vẫn quần quật lao động… Trong mấy ngày ở lại đây, tôi được hưởng những đêm ái ân nồng cháy trên ổ rơm thơm phưng phức bên người đẹp nhà nông có thân hình cứng như… gỗ lim này. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao lúc đó tôi không ở lại Nhã Nam, lấy cô gái quê này làm vợ, trở thành một anh nông dân không tên tuổi? Âu cũng là số kiếp…”.

Cuối năm 1946, Phạm Duy gia nhập Đoàn Văn nghệ Giải Phóng, đóng quân và lưu diễn từ Sơn Tây qua Vĩnh Yên tới Lào Cai. Tại đây, chỉ vì quá nể anh bạn thân là nhạc sĩ Văn Cao nên chàng từ giã đoàn (mùa hè năm 1947) để ở lại hát cho “quán Biên Thùy” của Văn Cao. Và, chàng “bắt tình” (chữ của Phạm Duy) với một cô chiêu đãi viên vốn là vũ nữ ở Hà Nội, ca khúc nổi tiếng Bên cầu biên giới cũng ra đời tại đây. Cuối năm 1947, Phạm Duy và nhạc sĩ Ngọc Bích (tác giả Mộng chiều xuân) rủ nhau về Chợ Đại…

Quán Thăng Long của một gia đình nghệ sĩ…

                    Nhạc sĩ Phạm Duy tại nhà

Cuối năm 1946, có một gia đình nghệ sĩ từ Hà Nội chạy tản cư về Hà Đông, mở một quán phở kiêm quán cà phê, gọi là quán “Thăng Long” ở Chợ Đại – Cống Thần. Đó là gia đình ông Phạm Đình Phụng. Ông thích nhạc cổ còn bà (vợ sau) cũng là một ca nương nên dù chạy giặc vẫn mang đàn đi theo. Ông chơi đàn nguyệt còn bà dạo ngón đàn tranh, tỳ bà…

Ông bà có 3 người con: Phạm Thị Thái (sau này là ca sĩ Thái Hằng), Phạm Đình Chương (sau này là nhạc sĩ Phạm Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc) và Phạm Thị Băng Thanh (sau này là ca sĩ Thái Thanh). Nếu kể cả 2 người con trai của bà vợ trước gồm: Phạm Đình Sĩ (bố của ca sĩ Mai Hương sau này) và Phạm Đình Viêm (tức ca sĩ Hoài Trung), thêm vào dâu, rể (nhạc sĩ Phạm Duy, ca sĩ Khánh Ngọc) và thế hệ con cháu… thì gia đình “Thăng Long” này quả là một “thế lực” trong lĩnh vực ca nhạc…

                                  Thái Hằng

Năm ấy, cô Thái vào khoảng 20 tuổi, chẳng những hát hay mà còn biết chơi đàn guitare Hawaienne. Tuy vậy, lúc nào nàng cũng có một vẻ buồn xa xăm… Quán Thăng Long lúc đó là nơi hội tụ của giới văn nghệ sĩ tản cư, và cô Thái chính là đích ngắm của hàng loạt “cây si” tên tuổi: thi sĩ Huyền Kiêu, thi sĩ Đinh Hùng, họa sĩ Bùi Xuân Phái, nhạc sĩ Ngọc Bích…

Trước khi đi tản cư, cô Thái từng gia nhập đoàn kịch của Thế Lữ (cô Thái là cháu bà Song Kim, vợ Thế Lữ), được nhà thơ Thế Lữ đặt cho nghệ danh là Thái Hằng nên cô dùng luôn cho tới lúc lìa đời… Thế nhưng trong những người vây quanh cô Thái lúc bấy giờ lại chẳng có Phạm Duy, dù rằng anh vẫn thường đến quán Thăng Long và tham gia những “show” văn nghệ của gia đình này.

Có hôm cao hứng, anh còn nhảy lên bàn ăn, vung tay múa chân hát nhạc Văn Cao hay ngâm thơ Hoàng Cầm… Sở dĩ Phạm Duy không “mặn mà” với quán Thăng Long là bởi lúc này (năm 1948) anh đang khoái nằm trong một con đò, thả trôi bồng bềnh trên một khúc sông dài 5km của Chợ Đại – Cống Thần ôm một người đẹp tên là Hiếu.

“Nàng thuộc vào loại đàn bà rất phóng túng của Hà Nội mấy năm trước đây, có một thân hình nở nang đẹp đẽ không thua gì bức tượng của thần Vệ Nữ ở Milo, có đôi mắt lặng lờ và khiêu khích, có cái răng khểnh rất kiêu sa và có một con tim bốc lửa. Tôi sống với nàng Hiếu trong một con thuyền nhỏ. Thuyền tình này khi thì trôi trên dòng sông Đáy, khi thì đậu ở bến chợ Đại hay bến Cống Thần. Đêm đêm tôi giả vờ là anh Trương Chi, ôm đàn guitare, ngồi hát ở mạn thuyền. Tại đây tôi soạn bài Tiếng đàn tôi: “Mênh mông lả ơi. Thuyền về tới bến Mê rồi. Khoan khoan hò ơi. Dặt dìu trong tiếng đàn tôi…” – theo Phạm Duy.

Vào đầu năm 1949, Phạm Duy và mấy anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Thái Hằng, Băng Thanh (tức Thái Thanh) gia nhập các ban văn nghệ quân đội của Liên khu IV, hai ông bà chủ quán Thăng Long cũng rời Chợ Đại di cư vào Thanh Hóa để được sống gần gũi các con.

Hai ông bà tới Chợ Neo, thuê lại căn nhà lá và mở một quán phở, vẫn lấy tên là quán Thăng Long… Vì là đồng đội trong đoàn văn nghệ quân đội, bản thân lại “tứ cố vô thân” nên vào những ngày nghỉ, Phạm Duy thường hay theo Phạm Đình Viêm và Thái Hằng về chơi quán Thăng Long và được bố mẹ họ coi như người nhà. Anh được ăn uống và ngủ luôn tại quán. Giường ngủ là hai cái bàn trong quán ăn kê sát nhau. Họ thường đàn đúm, ca hát với nhau suốt ngày…

                      Phạm Duy và Thái Hằng

Tại đây, những lúc quán vắng khách, Phạm Duy ngồi trên cái chõng tre, nhìn ra cánh đồng xanh rực nắng hay nằm dưới ánh đèn dầu để soạn lời ca tiếng Việt cho những bài Sérénade (Schubert), Plaisir d’amour, Célèbre Valse (Brahms), Back To Sorriento, Les Millions d’Arlequin… tặng hai chị em Thái Hằng, Băng Thanh…

Thực ra lúc đầu, Phạm Duy chẳng để ý gì đến Thái Hằng, dù từng nghe nàng hát, nàng đàn guitare Hawaienne – nhưng đó là khi còn ở Chợ Đại, quanh nàng luôn vây kín những “cây si” mà nếu so với Phạm Duy thì họ thuộc hạng “đại kình địch” nên anh chàng lãng ra để còn “bận bịu” với những mối tình bèo mây khác…

Chỉ đến khi cùng sống dưới một mái nhà, cùng vui đùa ca hát và có rất nhiều thì giờ để hiểu biết nhau, Phạm Duy mới nhìn ra những tố chất của một người vợ lý tưởng qua người con gái này, nhìn lại mình cũng đã xấp xỉ tuổi 30 – cái tuổi cần phải… lấy vợ!


10 thành phố đáng sống nhất thế giới

Trong danh sách bình chọn 10 thành phố đáng sống nhất thế giới, Melbourne dẫn đầu với tất cả các tiêu chí đều đạt điểm gần tối đa. So với những nước khác, Úc vượt trội hơn hẳn khi có tới 4 thành phố cùng xuất hiện trong danh sách này.

Bản danh sách được đưa ra bởi tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Anh – Economist Intelligence Unit, một cơ quan chuyên cung cấp – phân tích thông tin dữ liệu về môi trường sống, đầu tư, kinh doanh, làm việc… của các thành phố và đất nước trên thế giới.

Có nhiều công viên đẹp, dịch vụ chăm sóc sức khỏe chu đáo và nằm ngay cạnh bãi biển được xếp vào hàng đẹp nhất thế giới, dễ hiểu tại sao nhiều người muốn được sống tại thành phố Melbourne của Úc.

Dù không có được vẻ đẹp hào nhoáng như Sydney nhưng thành phố lớn thứ hai nước Úc – Melbourne được coi là thành phố đáng sống nhất thế giới trong suốt 3 năm liên tiếp.

Với dân số không quá lớn – 4,25 triệu người, thành phố Melbourne đã đánh bại những cái tên nổi tiếng khác như Vienna của Áo hay Vancouver của Canada để giành ngôi vị quán quân.

Ở nơi đáng sống nhất thế giới
Những dịch vụ phúc lợi xã hội của Melbourne như giáo dục, y tế đề được đánh giá rất cao, đó là lý do tại sao nơi này được coi là thành phố đáng sống nhất thế giới trong 3 năm liên tiếp.

Bên cạnh đó, từ danh sách này có thể thấy nước Úc cũng là một trong những nước đáng sống nhất thế giới khi có tới 4 thành phố lọt vào top 10 bao gồm Melbourne, Adelaide, Sydney và Perth. Ngoài ra, Canada cũng có tới 3 thành phố lọt vào danh sách này.

Trong danh sách này có thể nhận thấy, những thành phố lý tưởng để sinh sống là những thành phố cỡ trung bình tại các nước phát triển, có mật độ dân cư tương đối thấp.

Ở nơi đáng sống nhất thế giới

Thành phố Melbourne đã 3 năm liền đứng đầu danh sách những thành phố đáng sống nhất thế giới. Nơi đây cũng nổi tiếng vì có nhiều nền văn hóa đa dạng cùng song hành tồn tại, làm nên nét đặc sắc riêng cho thành phố. Ở Úc, Melbourne được coi là vùng đất của nghệ thuật, ẩm thực, rượu vang và các môn thể thao mạo hiểm dưới nước.

Các tiêu chí để chấm điểm cho các thành phố bao gồm: mức độ phát triển bền vững, tỉ lệ tội phạm hoặc bất ổn xã hội, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, văn hóa và môi trường.

Những thành phố khác nằm trong danh sách “đáng sống nhất” thế giới:

Ở nơi đáng sống nhất thế giới

                               Vienna (Áo)

Ở nơi đáng sống nhất thế giới

                       Vancouver (Canada)

Ở nơi đáng sống nhất thế giới

                          Toronto (Canada)

Ở nơi đáng sống nhất thế giới

                          Calgary (Canada)

Thành phố Adelaide, Úc
Thành phố Adelaide, Úc

Thành phố Sydney, Úc
Thành phố Sydney, Úc

Thành phố Helsinki, Phần Lan
Thành phố Helsinki, Phần Lan

Thành phố Perth, Úc
Thành phố Perth, Úc

Thành phố Auckland, New Zealand
Thành phố Auckland, New Zealand